Thursday, July 09, 2009

Việt Nam, Trung Quốc và bauxit

Dịch từ báo le monde ra ngày 3 tháng 7 năm 2009

Quan điểm của cá nhân mình là làm gì thì làm cũng phải đặt lợi ích đất nước lên hàng đầu, không thì sau này lich sử nó ghi lại là "bán nước cầu vinh" thôi. Cứ lấy gương của Putin và Gorbachev ra mà soi. Mình không thích và cũng không hy vọng dân chủ mang từ ngoài vào, như thế chẳng khác nào cõng rắn cõng gà nhà. Mình chỉ hy vọng vào sự chuyển biến nội bộ trong đất nước khi mà dân trí được nâng cao dần. Người dân thực sự ý thức được vai trò và quyền của họ trong xã hội, sống tôn trọng pháp luật. Điều gì đến thì cũng đến.

Le Vietnam, la Chine et la bauxite
http://blog.mondediplo.net/2009-07-03-Le-Vietnam-la-Chine-et-la-bauxite

Bauxit ư? Người Việt Nam dường như đã chấp nhận nó. Chủ đề này đã được nhắc đến nhiều lần trong kỳ họp quốc hội tháng 6 vừa rồi. « Chấm dứt khai thác bauxit ! » « Trả lại màu xanh cho rừng Tây Nguyên », đó là những khẩu hiệu mà người ta có thể đọc được trong một cuộc biểu tình đòi đất của một nhóm người catholic ngày 16 tháng 6 ở Hà Nội (chú này hơi đểu, chuyện nọ xọ chuyện kia). Ngay cả đại tướng Võ Nguyên Giáp, người anh hùng dân tộc trong cuộc chiến Đông Dương, cũng đã gửi 2 bức thư đến chính quyền để bày tỏ quan ngại của mình. Bức thư đầu tiên (http://bauxitevietnam.info/tulieu/090114_thudaituongVNG1.htm) gửi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong một lần ông Dũng đến thăm tướng Giáp (cũng vừa mừng thọ 98 tuổi của mình) nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5.

Việc này có nghĩa là gì ? Việt Nam hiện có nguồn dự trữ mỏ bauxit để sản xuất nhôm đứng thứ 3 thế giới. Mỏ kim loại chất lượng cao này đã được phát hiện từ vài thập kỷ trước ở 2 tỉnh Dak Nông và Lâm Đồng, phía nam thành phố Ban Mê Thuộc. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu này chỉ được nhắc đến từ những năm đầu thập kỷ 80 và những dự án khai thác thì đã vài lần được đình lại. Một mặt, những nhà đầu tư quốc tế đã ước lượng giá trị lợi nhuận khổng lồ của nó vào khoảng 15 tỷ đô la trong vòng 15 năm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nó sẽ góp phần làm thay đổi giá cả trên thị trường quốc tế. Mặt khác, việc khai thác quặng bauxit cũng đồng nghĩa với việc phá huỷ hệ sinh thái của Tây Nguyên. Việc xử lý quặng với khối lượng lớn sẽ tạo ra những quả « bom bùn » cực kỳ đôc hại mà ngừơi ta phải cô lập để bảo vệ đất và nguồn nước xung quanh.

Sau một thời gian dài chần chừ thì đến năm 2007 chính phủ Việt Nam đã ký một văn bản hợp tác với Trung Quốc (bọn này chơi chữ khi ko nói rõ là với công ty hay với chính phủ TQ) để tiến hành khai thác ở 2 địa điểm là Nhân Cơ và Tân Rai. Việc người TQ tham gia khai thác quặng đã đưa cuộc tranh luận sang 1 chiều hướng khác. Nhiều chuyên gia (bao gồm cả những người trong bộ máy cầm quyền) đã bày tỏ mối lo ngại của mình. Trong khi Bắc Kinh đã cho đóng cửa những mỏ khai thác quặng trong nước vì những hậu quả đối với môi trường thì làm sao họ có thể đảm bảo bảo được môi trường ở nước sở tại (nói nôm na là ăn ốc bỏ vỏ). Nhất là dã tâm của người TQ đối với Viêt Nam được thể hiện rất rõ sau cuộc chiến tranh biên giới chớp nhoáng nhưng đẫm máu năm 1979.

Bắc Kinh và Hà Nội - « tình » xưa « nghĩa » cũ

Mối quan hệ Bắc Kinh và Hà Nội chỉ được bình thường hoá khoảng chục năm sau đó. Hiện tại TQ đang là nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam. Hà Nội cũng có 2 lý do để củng cố nguồn vốn đầu tư từ TQ. Thứ nhất là để giảm thâm hụt cán cân thương mại giữa 2 nước (nghĩa là trước đến giờ VN nhập khẩu từ TQ nhiều hơn ???). Thứ nhì là để bù đắp lại sự thụt giảm gần 40% nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài trong khoá tài chính thứ nhất do khủng hoảng toàn cầu. Trong chuyến viếng thăm vào tháng 4 của ông Nguyễn Tấn Dũng với người đồng nhiệm Ôn Gia Bảo, ông đã ước tính mục tiêu nâng mức cán cân thương mại 2 bên lên từ 20 tỷ đô la trong năm 2008 lên 25 tỷ đô la năm 2010 cùng lúc với việc giảm mức thâm hụt từ phía Việt Nam.

Sự trỗi dậy của TQ trong 2 thập kỷ gần đây khiến họ càng ngày càng quan tâm đến vùng Đông Nam Á. Trong đó Việt Nam chính là mối quan tâm (lo ngại) hàng đầu vì Bắc Kinh không thể quên được sự can thiệp quân đội của Việt Nam vào Campuchia giai đoạn 1978-1989. TQ đã tăng cường khá nhiều hải quân đến vùng biển Nam Hải (Biển Đông theo cách gọi của người Việt Nam) nơi đang có tranh chấp về chủ quyền về 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Tàu tuần tra của TQ đã bắt giữ những ngư dân Việt Nam trong vùng biển mà Bắc Kinh tự coi là vùng đặc quyền kinh tế (chiếm khoảng 80% diện tích mặt nước ở vùng biển này) của mình. Đã có những cuộc biểu tình chống TQ nổ ra ở Việt Nam trong vài năm gần đây chủ yếu về vấn đề biên giới chung của 2 nước.

Chính vì thế việc người TQ tham gia khai thác mỏ quặng giữa Việt nam diễn ra trong một hoàn cảnh khá nhạy cảm. Chính phủ VN đã phải giải trình trước Quốc hội đồng thời tỏ ra nhún nhường trước những áp lực của người TQ. Chính phủ cũng đã gạt qua những ảnh hưởng đến môi trường cùng lúc sửa đổi lại đề án với công ty Chinalco để tránh bị thông qua một cuộc bỏ phiếu lấy ý kiến các đại biểu trước Quốc hội. Bộ trưởng bộ công thương đã tổ chức một cuộc hội thảo vào tháng 5 để giải thích và cũng để xoa dịu những e ngại của khoảng 50 chuyên gia trong chính phủ và ngoài khu vực tư nhân.

Hai điểm khai thác sẽ cho ra khoảng 1,3 triệu tấn nhôm hàng năm. Việc xây dựng một nhà máy tinh chế quặng ở Nhân Cơ tiêu tốn gần 735 triệu đô la sẽ cần khoảng 2.000 lao động. Tuy nhiên lợi ích của toàn dự án vẫn còn là dấu chấm hỏi. Việc giá nhôm giảm mạnh từ năm 2007 có thể nhấn chìm dự án vào trong biển « đỏ » (ku này chơi chữ, rouge vừa có nghĩa màu đỏ vừa có nghĩa là máu đỏ). Trong trường hợp nhu cầu nhôm ở Việt Nam tăng, mức nhập khẩu hiện tại cũng chỉ tăng khoảng vài ngàn tấn mà thôi. Các chuyên gia cảnh báo những rủi ro trong việc lãng phí tài chính khi đầu tư vào dự án.

Nỗi lo tàn phá môi trường

Việc mở cửa mỏ quặng đầu tiên ở Tân Rai đã gây ra những lo ngại. Trong một vùng khá khô hạn như ở đây, người nông dân phải dùng nguồn nước từ hồ chứa để tưới cho những cây chè và cây cà phê. Những hồ chứa này bây giờ có thể biến thành những hồ chứa bùn đỏ mà trong đó chứa đến 70% chất sút (d’hydroxyde de sodium). Mối nguy từ việc nhiễm độc đất đai cũng rất lớn. Trong một lá thư gửi hội nghị chính thức ở Hà Nội, tướng Giáp đã tiết lộ rằng những chuyên gia Liên Xô từ ¼ thế kỷ trước đã khuyên Việt Nam không nên khai thác ở đây với lý do « sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường ». Trong một lá thư khác của Tổng Giám Mục Sài Gòn (sao ku này cứ thích liên xiên sang công giáo thế nhỉ ?), ông đã nhắc đến những tác hại đối với môi trường và những hiểm hoạ đối với sự an toàn của dân cư xung quanh. Tuy vậy tổng công ty than khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đã được cho phép khai thác từ 2 năm trước cùng với công ty của TQ. Khai thác thì vẫn cứ khai thác và người TQ vẫn cứ tham gia.

Về khía cạnh này của dự án đã gây ra khá nhiều tranh cãi. Gần 500 người TQ đã có mặt tại công trường từ cuối tháng 5 theo lời của ông phó chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng. Một vài công nhân chỉ được cấp visa du lịch tạm thời. Trong khi đó việc thuê công nhân nước ngoài trình độ thấp (còn gọi là mọi) bị cấm tại Việt Nam. Một người quản lý của công ty than khoáng sản Việt Nam cho biết những nhà thầu TQ đã bị phạt vì « đã đưa công nhân vào Việt Nam và nhận họ làm việc không giấy phép ». « Việc xác định một chiến lược phát triển Tây Nguyên bền vững là vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng » như lời tướng Giáp đã tổng kết trong lá thư của mình.

Đây cũng là điểm bất ổn của dự án. Để bảo vệ đề án, chính phủ đã cam kết thực hiện những bước đi thận trọng kể cả việc dùng những công nghệ khai thác hiện đại nhất để tránh những sự cố. Nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy chính phủ sẽ trì hoãn dự án này. Mọi tranh luận chỉ để nghe cho vui tai…

Nhà báo Jean-Claude Pomonti
Người dịch Tui (08/07/2009)

No comments: